Kinh An Trú Tâm
Kinh này được đức Phật nói tại tu viện Cấp Cô Độc, thành Xá Vệ (Sàvatthi). Kinh thuộc loại vô vấn tự thuyết và thí dụ.
Nội dung của bài kinh, đức Phật chỉ những phương pháp nhiếp phục các loạn tưởng, ác tâm để dẫn đến sự tiêu diệt các loạn tưởng, ác tâm ấy hầu đạt được sự an tĩnh của nội tâm. Những phương pháp này giúp cho tâm của người thực hành mỗi lúc mỗi thăng tiến nên được gọi là tăng thượng tâm. Đức Phật liệt kê ra 5 tướng trạng, có thể gọi là 5 cách, để giúp đình chỉ các ác tư duy, đưa đến sự an tịnh, nhất tâm, định tĩnh nơi nội tâm.
Năm phương pháp ấy là :
1- Khi người thực tập thiền quán, y cứ hay suy tư một tướng trạng nào đó, thay vì dẫn đến sự an tịnh, đạt được vô dục, vô sân, vô si; lại dấy lên tham dục, sân hận và si mê, thì lập tức y cứ vào một tướng trạng khác làm phát lên các thiện tư duy để đối trị các ác tư duy trước đó. Nhờ đối trị như vậy mà các ác tư duy được đình chỉ, dần dần dẫn đến tiêu diệt. Do tiêu diệt được các ác tư duy mà tâm được an trú, định tĩnh.
2- Trong trường hợp dùng một tướng trạng khác có tác dụng phát khởi thiện tư duy mà vẫn không có kết quả; tham dục, sân hận, si mê vẫn tiếp tục dấy lên, thì người thực hành lại chuyển qua một cách khác. Cách thứ hai này là khởi lên sự qúan chiếu về những hiểm nguy, những độc hại của các ác tư duy đó. Chẳng hạn như nhận diện : đây là tư duy bất thiện; tư duy này đưa đến tội báo; tư duy này đưa đến khổ quả...Nhờ quán sát như vậy mà các ác tư duy được đình chỉ, dẫn đến sự an định, nhất tâm, định tĩnh của nội tâm.
3- Trường hợp thứ ba là nếu quán sát về những nguy hiểm, những tội báo mà vẫn không thành công, thì cần phải tập không nhớ nghĩ, không suy tư đến những tư duy đó nữa hay bất cứ một tướng trạng nào khác. Nhờ đình chỉ mọi tư duy như vậy mà dẫn đến tâm được an tịnh và định tĩnh.
4- Nếu đình chỉ mọi tư duy như vậy mà vẫn không có hiệu nghiệm, thì bắt đầu trở lại bằng cách quán sát các hành tướng của các ác tư duy cũng như tướng trạng của sự đình chỉ tư duy ra sao. Có những hành giả nhờ thực hành như vậy mà đình chỉ được các ác tư duy, đưa đến sự an tịnh, sự định tĩnh nội tâm.
5- Cuối cùng, nếu tất cả đều vô hiệu, thì dùng cách dùng tâm chế ngự tâm (dĩ tâm duyên tâm); tức dùng định tâm để chế ngự vọng tâm. Nhờ dùng định tâm chế ngự vọng tâm, nên vọng tâm được đình chỉ; dẫn đến sự an tịnh, định tĩnh của nội tâm.
(Nghi vấn ở đây là : tâm đang loạn động, vọng niệm chưa chế ngự được, thì định tâm đâu ra mà chế ngự vọng tâm ? - Câu trả lời có thể bắt nguồn từ giai đoạn thứ tư; nghĩa là khi quán sát các hành tướng của các ác tư duy mà không thấy chỗ xuất xứ cũng như không thấy chỗ quy xứ của chúng, thì cái thấy, cái biết ấy chính là định tâm. Cái biết, cái thấy là tên khác của trí tuệ. Duy trì trí tuệ, duy trì chánh niệm thì vọng tâm không sanh).
Đức Phật dùng ví dụ là lấy một điều tốt đẹp hơn để thay thế một điều xấu dỡ hơn. Ví như một người thợ mộc dùng một chiếc nêm mới, tốt đóng ngay vào chỗ chiếc nêm cũ, hư.
Xin tham khảo :
Việt tạng : Trung bộ kinh I, Kinh an trú tầm, tr. 269
Hán tạng : ĐCI, Tăng thượng tâm kinh, tr. 588/trên
Anh tạng : Middle length sayings I, Discourse on the Forms of Thought, tr. 152
Pàli tạng : Majjhima Nikàya, Vitakkasanthàna Sutta, kinh 20